Ung thư đại tràng và cách phòng tránh
Ở Việt Nam, ung thư đại trực tràng đứng thứ 4 trong số 10 bệnh ung thư phổ biến nhất với số mắc mỗi năm khoảng 8.000 ca, dự báo đến năm 2020 sẽ tăng lên hơn 13.000. Bệnh thường gặp ở cả nam và nữ nhưng ở nam mắc bệnh nhiều hơn. Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 30 - 60. Nguy cơ càng cao hơn nếu toàn bộ đại tràng bị viêm.
Biểu hiện của bệnh ung thư đại tràng.
Phần lớn biểu hiện của bệnh không đặc trưng nên người bệnh thường không nghĩ tới ung thư. Theo các bác sĩ, ddại tràng gọi là ruột già nên to hơn ruột non, trên thành có những dải dọc, kèm theo rất nhiều bờm mỡ to hoặc nhỏ, dày hay mỏng tùy theo người béo hay gầy. Nếu thấy các triệu chứng như táo bón, đi ngoài như bị kiết lị, đi ngoài ra máu và đặc biệt là cân giảm bất thường thì phải nghĩ ngay đến việc đến bệnh đại tràng.
Trong đó, cần lưu ý đến việc đi ngoài ít một như bệnh kiết – đó là dấu hiệu chứng tỏ trên đường đào thải ra bên ngoài đã gặp phải những vật cản khác trong đường tiêu hóa làm cho hình dạng và kích cỡ của phân bị biến dạng, thay đổi. Những vật cản đó có thể là các khối u đang được hình thành trong ruột kết. Ngoài ra, khi phân đi qua khối u không chỉ làm cho chúng thay đổi về kích cỡ mà chúng còn gây nên hiện tượng chảy máu. Do vậy mà đi ngoài ra máu cũng là một trong những triệu chứng nghiêm trọng của ung thư đại tràng.
Theo các bác sĩ chuyên khoa, ung thư đại tràng trong thời kỳ đầu có thể gây đau hoặc đau âm ỉ, bệnh nhân có thể chịu đựng được hoặc đau nhiều thành cơn. Có trường hợp không đau nhưng lại có cảm giác nặng bụng. Không phải bao giờ tổn thương ung thư cũng ở dưới điểm đau, có khi ung thư đại tràng trái nhưng điểm đau lại ở hố chậu phải. Triệu chứng rối loạn tiêu hóa như táo bón thường xuất hiện sau cơn đau.
Có khi đại tiện lỏng, ngày đi 4 - 5 lần, trong phân có lẫn máu và mủ, do đó dễ nhầm lẫn với bệnh kiết lỵ. Thực tế có bệnh nhân bị táo bón, có bệnh nhân bị tiêu chảy, có bệnh nhân có xen kẽ những đợt táo bón và tiêu chảy.
Những ai có nguy cơ mắc bệnh?
Các bác sĩ cho rằng, người có nguy cơ bị ung thư đại tràng là người bị viêm loét đại tràng lâu ngày hoặc chế độ ăn uống hàng ngày nhiều chất béo và ít chất xơ. Ngoài ra, những người có tiền sử gia đình (bố mẹ hoặc anh, em ruột) bị ung thư đại trực tràng, nguy cơ mắc bệnh cao gấp 2-3 lần người bình thường.
Các nhà khoa học nhận thấy hầu hết bệnh nhân là người lao động chân tay, ít người lao động trí óc, ở đồng bằng, nông thôn số người bị bệnh nhiều hơn ở thành thị, một số ít bệnh nhân trong tiền sử có bệnh polip rải rác ở đại tràng hoặc đại tràng có viêm loét chảy máu.
Với một người bị viêm đại tràng, nếu chưa có khối u hình thành thì rất khó chẩn đoán, kể cả khi nắn sâu xuống bụng cũng không phát hiện một hiện tượng bất thường nào. Nếu có khối u đã hình thành thì việc chẩn đoán dễ dàng hơn, nắn khối u bên phải thường dễ phát hiện vì chúng thường to hơn khối u ở bên trái.
Với một người cao tuổi, nếu có những rối loạn tiêu hóa với các đợt đại tiện lỏng hoặc táo bón hay đại tiện lỏng xen kẽ với táo bón; kèm theo đó là thể trạng mệt mỏi, da xanh, sút cân thì phải nghĩ đến ung thư đại tràng.
Các bác sĩ đưa ra lời khuyên, nếu có các triệu chứng trên nên đến bệnh viện sớm để làm các xét nghiệm như chụp phim X-quang, siêu âm, soi trực tràng - đại tràng, sinh thiết…Hiện nay, hầu hết các bệnh nhân bị ung thư đại tràng đều đến bệnh viện muộn và ở thời kỳ đầu rất khó phát hiện ung thư, dễ chẩn đoán nhầm lẫn với bệnh viêm đại tràng hoặc bệnh kiết lỵ. Ung thư đại tràng thường gây nên những biến chứng như tắc ruột, thủng ruột, áp xe quanh khối u và di căn.
Ung thư đại tràng có nhiều phương pháp điều trị can thiệp như: phẫu thuật, dùng hóa chất chống ung thư, tia X-quang kết hợp phẫu thuật với hóa chất, tia phóng xạ... Cho đến nay phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính. Việc điều trị bằng hóa chất có khả năng diệt tế bào ung thư nhưng không diệt được tế bào ung thư cuối cùng nên phương pháp điều trị bằng hóa chất thường kết hợp với phẫu thuật và X-quang.
Các nhà khoa học cho rằng những bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư đại tràng được phát hiện tình cờ và xử lý can thiệp bằng phẫu thuật sớm thì có khoảng 82% trường hợp có thể sống trên 5 năm, trái lại những bệnh nhân đã có triệu chứng của bệnh ung thư rồi mới đi khám và được phẫu thuật thì chỉ có khoảng 45% trường hợp sống thêm được trên 5 năm.
Phát hiện sớm để tăng cơ hội sống
Nội soi đại trực tràng định kỳ là cách tốt nhất để phát hiện sớm ung thư đại trực tràng. Ngay cả khi bác sĩ phát hiện bạn có polyp trong đại trực tràng cũng phải mất từ 5 đến 10 năm polyp mới chuyển sang ung thư, do vậy bạn sẽ chủ động hơn trong việc theo dõi và điều trị trước khi chúng tiến triển thành ung thư. Nội soi đại trực tràng nên tiến hành đối với những người trong độ tuổi từ 45 đến 50.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học trong lĩnh vực y tế, các nhà nghiên cứu không ngừng tìm ra các phương pháp điều trị mới giúp tăng cơ hội sống cho người bệnh ung thư đại trực tràng. Theo thống kê từ năm 2005 tới 2014, tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư đã tăng từ 45 lên 50%.
Để phòng tránh bệnh ung thư đại tràng nên có một chế độ dinh dưỡng hợp lý, hạn chế ăn các món chứa thịt đỏ và thịt đã qua chế biến có mỡ động vật như jam-bông, thịt hun khói, xúc xích, đồ ăn nhanh. Nên ăn 500 gam thịt đã nấu mỗi tuần cùng với nhiều rau xanh tươi và hoa quả mỗi bữa. Cùng với đó là tập luyện thể dục thể thao, năng vận động để rèn luyện sức khỏe và nâng cao sức đề kháng.
Phòng chống ung thư đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết bởi hiện nay trung bình mỗi năm Việt Nam có thêm 200.000 ca ung thư mới và số người chết vì căn bệnh này là 70.000, trong đó ung thư đại tràng nằm trong danh sách hàng đầu. Bệnh cần được phát hiện sớm để can thiệp bằng phẫu thuật mới có hiệu quả, nếu phẫu thuật thì chỉ phẫu thuật một lần là tốt nhất.
Nội soi đại trực tràng định kỳ là cách tốt nhất để phát hiện sớm ung thư đại trực tràng. Ngay cả khi bác sĩ phát hiện bạn có polyp trong đại trực tràng cũng phải mất từ 5 đến 10 năm polyp mới chuyển sang ung thư, do vậy bạn sẽ chủ động hơn trong việc theo dõi và điều trị trước khi chúng tiến triển thành ung thư. Nội soi đại trực tràng nên tiến hành đối với những người trong độ tuổi từ 45 đến 50, mỗi 5 năm. |