Tôi kể từ thực tế của mình để thấy sáng tác văn chương chả có quy luật nào, hoặc có một quy luật siêu hình mà chưa ai có thể nắm bắt. Vì thế phải chăng sáng tác văn chương không thể phấn đấu được?
1. Khi còn công tác ở Hội Văn học Nghệ thuật Hải Hưng, mỗi lần mở Trại năng khiếu sáng tác văn học cho thiếu nhi trong tỉnh, nhà văn Nguyễn Phúc Lai và tôi thường nói với các em: Nghề này khổ lắm, em nào không có năng khiếu thì đừng theo đuổi. Mỗi Trại sáng tác trẻ ấy đều xuất bản được một tập sách: Mây ngũ sắc, Sương ngọt, Hạ trắng... Bây giờ, thỉnh thoảng tôi đọc lại vẫn thấy thích. Tôi cho rằng những tập sáng tác ấy có văn và các em là những cây bút thực sự có năng khiếu. Thế mà mở dăm bảy Trại sáng tác, mỗi Trại có vài chục em, đến nay nhìn lại cũng chỉ còn vài ba em trở thành những cây bút, không biết rồi có ai trở thành nhà văn thực sự không?
Tháng 1/1972, đang là sinh viên Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội I, tôi nhập ngũ tham gia quân đội. Ba tháng tân binh, tôi ở cùng một trung đội với Trần Đăng Suyền, Vũ Đình Văn… Mỗi tháng trung đội ra một số báo tường, chọn bài hay gửi báo tường đại đội, tiểu đoàn. Khi đi học lớp tiểu đội trưởng, rồi trung đội phó, tôi có ở cùng tiểu đoàn với các anh Vương Thừa Việt, Lê Tất Cứ… lúc đó các anh đã có thơ dự thi đăng báo Văn nghệ. Hai tiểu đoàn sinh viên hơn một nghìn người, rất nhiều người hăm hở sáng tác ước mong trở thành nhà thơ, nhà văn. Thế mà cũng chỉ có Vũ Đình Văn lóe sáng trên văn đàn rồi hy sinh, Trần Đăng Suyền trở thành nhà nghiên cứu phê bình. Còn một số khác cũng vẫn viết, nhưng nhiều người đến nay vẫn chưa được khẳng định.
Về học nốt năm cuối cùng ở khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, tôi cùng chị Phạm Thu Yến và Trịnh Công Lộc có tổ chức Câu lạc bộ Thơ của trường dưới sự chỉ đạo của thầy Nguyễn Đình Chú. Chúng tôi mở cuộc thi Thơ có hàng trăm sinh viên tham gia với ngót nghìn bài thơ, chọn trao 4 giải Nhất, trong đó có Trần Hòa Bình, sau này là tác giả bài thơ “Thêm một”. Ba người khác tôi không còn nhớ tên, bởi mấy chục năm nay cũng ít thấy xuất hiện trên văn đàn.
Nhắc lại những kỷ niệm thực mà tôi đã trải qua, đến thời điểm này nhìn lại mới thấy sáng tác văn chương quả là thử thách nghiệt ngã, thời gian đã sàng lọc ghê gớm. Yêu văn chương, nhưng không có tài thì cũng không được chấp nhận. Làm được một chút gì đó trong nghiệp văn cũng khó vô cùng.
Nhưng lịch sử văn chương cũng có sự nhầm lẫn và cũng có sự dễ dãi đối với một số người. Sự dễ dãi của đời sống văn chương thì mọi người dễ thấy. Đó là một số tên tuổi được lăng-xê, trở thành nổi tiếng trong thời gian vừa qua. Còn sự nhầm lẫn tuy không nhiều của lịch sử văn chương thì không phải ai cũng thấy được. Nhưng tôi đã phát hiện được một trường hợp như thế! Anh là một nhà văn có tên tuổi, và đến nay đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tôi rất kính trọng anh về mặt nhân cách và sự đóng góp của anh cho đời sống văn chương khi anh có công lớn làm một tuyển tập văn chương của một ngành đồ sộ, có ý nghĩa. Nhưng khi được một tờ tạp chí đặt bài viết về tuyển tập truyện ngắn của anh, tôi đã đọc kỹ tuyển tập truyện ngắn ấy và thật sự thất vọng. Sự nhầm lẫn trong đánh giá của đời sống văn chương thật là tai hại. Các nhà phê bình có phải chịu trách nhiệm không?
2. Tôi không phải là nhà văn chuyên nghiệp hiểu theo nghĩa cả đời chỉ chuyên làm một công việc viết văn, bởi tôi đã phải sống bằng nghề dạy học, viết báo, làm công việc văn phòng… Viết văn chỉ khi cảm hứng đến. Và khi cảm hứng sáng tác ập đến thì tôi cứ thế viết ra thôi, chả nghĩ ngợi gì về kỹ thuật này nọ. Nhưng trong tôi hình như cũng có một duyên kiếp gì đó với văn chương mà "nàng Thơ" và "chàng Văn" cứ lẩn quất, lúc ẩn lúc hiện, không rừng rực cháy, nhưng cũng không nguội lạnh hẳn, bất thường như một cô gái đỏng đảnh, đã theo tôi từ trẻ đến giờ.
Tôi làm thơ từ khi là học sinh cấp III, tức là khoảng 15, 16 tuổi. Lúc ấy thơ tôi gửi đi không báo nào đăng. Bài thơ đầu tiên tôi được đăng báo khi tôi đã học năm cuối khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, có số phận rất tình cờ. Ấy là bài thơ tôi đăng báo tường ở trường cấp III Tiên Lữ (tỉnh Hưng Yên) khi tôi là giáo sinh thực tập ở trường này cuối năm 1971. Tôi cũng không biết là một nhà báo hoặc một cán bộ văn hóa nào đó đã về trường và đọc được rồi đem đi đăng ở tạp chí “Văn nghệ Hải Hưng” lúc ấy thuộc Phòng Sáng tác và Xuất bản của Ty Văn hóa Hải Hưng. Bài thơ có tên "Cô đến thăm em" chỉ có bốn câu: “Tối nay cô đến thăm em/ Trăng vàng lai láng, hương sen vẫy chào/ Ôi lời cô nói ngọt ngào/ Gió ơi, có giọng hát nào hay hơn?” Bài thơ ca ngợi những cô giáo trẻ thực tập rất yêu nghề, yêu học trò. Dĩ nhiên là không hay. Nhưng khi được bạn bè báo tin thì tôi sung sướng còn hơn bây giờ được đăng cả chùm thơ trên báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam. Sự đón nhận và động viên ban đầu của người đọc cực kỳ quan trọng.
Tuổi trẻ, cảm hứng sáng tác đến ào ạt lắm. Có ngày tôi làm được tới mấy bài thơ. Nhưng thơ thẩn thì nhiều mà thơ thực thì ít. Trong khoảng mười năm tôi làm được hơn ba trăm bài, mà sau này tôi tuyển chọn 51 bài in thành tập thơ “Trăng suông” (NXB Hội Nhà văn, 2005).
Thế rồi, không hiểu sao từ đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, tôi bỗng có cảm hứng viết phê bình. Lúc đầu là phê bình thơ, đăng tạp chí văn nghệ địa phương được bạn bè động viên. Từ đây tôi hoạt động văn chương cả hai cánh: thơ và phê bình. Hai cánh của tôi cũng có lúc thăng bằng rồi mạnh yếu khác nhau trong từng thời kỳ, suốt cả thập niên tám mươi đến giữa thập niên chín mươi của thế kỷ XX. Năm năm cuối của thế kỷ XX và năm năm đầu thế kỷ XXI hồn thơ trong tôi hầu như dừng hẳn, tôi không viết được bài nào. Phê bình tiểu luận văn chương thì tôi vẫn viết nhưng cũng không dào dạt lắm. Lạ thế, lúc này tôi chuyển công tác về thủ đô Hà Nội, làm báo thuộc một cơ quan trung ương, được đi khắp trong Nam ngoài Bắc, cảm xúc tâm hồn thì dào dạt phơi phới, công việc thì nhàn nhã thanh thản mà "nàng Thơ" thì cứ trốn đâu mất. Nếu tôi không tự ý thức điều này mà cứ cố làm thơ đều đều, sản xuất thơ ồ ạt để tỏ ra ta đây hồn thơ vẫn dào dạt, thì hàng loạt những bài thơ vô hồn nhạt nhẽo đã hòa vào núi thơ, làm bạn đọc chán ghét. Cảm hứng sáng tác và cảm hứng cuộc sống ở tôi không trùng nhau. Không biết ở các nhà văn nhà thơ khác thì thế nào?
Thế rồi đột nhiên, từ năm 2006, trong lúc công việc làm văn phòng phục vụ cho lãnh đạo Bộ đang rất bận rộn, thì "nàng Thơ" lại đến ào ạt. Trong 2 năm 2006-2007, tôi sáng tác được khoảng dăm chục bài, nhiều chùm đã được đăng trên báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện tôi đã tập hợp thành tập “Sóng đôi”.
Nhưng từ năm 2008, nàng Thơ trong tôi lại biến mất, tôi có cảm hứng viết tản mạn nghiệp văn. Cuối năm 2008 tôi đã in thành tập. Cảm hứng viết tản mạn nghiệp văn kéo dài đến nay thì bắt đầu thấy "chàng Văn" có dấu hiệu sắp vỗ cánh bay đi. Rồi cảm hứng gì sẽ đến tôi cũng chưa biết được!
Tôi kể từ thực tế của mình để thấy sáng tác văn chương chả có quy luật nào, hoặc có một quy luật siêu hình mà chưa ai có thể nắm bắt. Vì thế phải chăng sáng tác văn chương không thể phấn đấu được. Điều ấy diễn ra ở mỗi nhà văn và ở cả nền văn chương. Chúng ta cứ nhìn vào lịch sử văn chương nước nhà hơn một thiên niên kỷ sẽ thấy rõ. Cho nên việc đề ra mục tiêu kế hoạch cho văn chương mà mong sớm có kết quả là điều không thể, hỡi các nhà hoạch định! Nhưng việc chăm bón bồi đắp cho nền văn học nghệ thuật thì vẫn phải thường xuyên. Mùa gặt sẽ bất ngờ chứ không bao giờ hẹn trước.