Trường hợp nào coi là đơn phương chấm dứt HĐLĐ?

PV (theo VGP) 22/09/2017 10:05

Bà Ánh Tuyết (Đồng Tháp) làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) xác định thời hạn 1 năm. Nay bà xin nghỉ việc khi chưa hết hạn hợp đồng và đã có đơn xin thôi việc trước 30 ngày, được giám đốc ký đồng ý giải quyết.

Theo thông báo của Phòng nhân sự, căn cứ Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, trường hợp của bà là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và sẽ bị trừ nửa tháng lương. Bà Tuyết hỏi, như vậy có đúng không?

Luật sư Trần Văn Toàn (VP luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội) trả lời như sau:

Theo Khoản 1, Điều 37 Bộ luật Lao động, người lao động làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn, có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ.

- Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ.

- Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động.

- Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ.

- Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy Nhà nước.

- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn.

Điểm b, Khoản 2, Điều 37 Luật này quy định, khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại Khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 30 ngày nếu là HĐLĐ xác định thời hạn.

Trường hợp sau 30 ngày, kể từ ngày người lao động báo cho người sử dụng lao động biết bằng văn bản sẽ chấm dứt hợp đồng trước thời hạn mà người sử dụng lao động không đồng ý hoặc không có ý kiến gì thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Việc người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này là đúng pháp luật.

Theo Điều 41 Bộ luật Lao động, trường hợp chấm dứt HĐLĐ không đúng quy định tại Điều 37 của Bộ luật này là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.

Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật

Điều 43 Bộ luật Lao động quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật như sau:

- Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo HĐLĐ.

- Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

Trường hợp bà Ánh Tuyết đang thực hiện HĐLĐ xác định thời hạn 1 năm thì có đơn xin thôi việc (thời hạn báo trước 30 ngày) và đã được giám đốc ký đồng ý giải quyết chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn. Vì cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động đều đồng ý chấm dứt HĐLĐ, nên đây là trường hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ.

Do hai bên đã thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ, nên bà Ánh Tuyết không đơn phương chấm dứt HĐLĐ, vì vậy không đặt vấn đề xem xét bà Tuyết đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng pháp luật hay trái pháp luật.

Việc cán bộ Phòng nhân sự thông báo bà Ánh Tuyết bị trừ nửa tháng lương khi chấm dứt HĐLĐ là không đúng quy định.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Trường hợp nào coi là đơn phương chấm dứt HĐLĐ?

    POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO