Chuyên gia kiến nghị Việt Nam sớm áp dụng thuế carbon để phát triển bền vững
Áp dụng thuế carbon được xem là bước đi tất yếu để Việt Nam vừa tăng nguồn thu ngân sách bảo vệ môi trường, vừa tạo động lực buộc doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm phát thải, tiến tới phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
Vấn đề cải cách
thuế bảo vệ môi trường đã trở thành chủ đề thảo luận nổi bật tại hội thảo Khoa
học Quốc gia chủ đề “Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước năm 2025” diễn ra 3/10, tại TP Hồ Chí Minh.
Nêu quan điểm tại hội thảo, TS. Trần Trung Kiên - Giám đốc Chương trình Thuế, Khoa Tài chính công, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần chuyển đổi từ thuế bảo vệ môi trường hiện hành sang thuế carbon.

Theo TS. Kiên, điểm hạn chế của thuế môi trường hiện nay là phạm vi đánh thuế quá hẹp, chỉ tập trung vào một số mặt hàng như than đá, xăng dầu, túi nilon… Trong khi đó, nhiều hoạt động sản xuất khác vẫn gây ô nhiễm lớn nhưng chưa chịu sự điều chỉnh.
“Thuế carbon sẽ thay đổi cách tiếp cận, không chỉ hỏi cái gì bị đánh thuế mà phải trả lời doanh nghiệp sản xuất như thế nào. Nếu quy trình gây phát thải cao, không thân thiện với môi trường thì sẽ phải nộp thuế carbon”, ông Kiên phân tích.
TS. Trần Trung Kiên thông tin thêm, mô hình thuế này đã được nhiều quốc gia áp dụng và chứng minh hiệu quả, vừa mở rộng cơ sở thu thuế, vừa bảo đảm tính công bằng giữa các ngành.
Thay vì chỉ vài mặt hàng bị đánh thuế, phạm vi sẽ bao trùm rộng hơn, từ đó giúp tăng nguồn ngân sách cho các dự án bảo vệ môi trường. Đồng thời, đây cũng là cơ chế khuyến khích doanh nghiệp chủ động đổi mới công nghệ, giảm phát thải, từng bước đáp ứng chuẩn mực quốc tế như Cơ chế điều chỉnh carbon qua biên giới (CBAM) mà Liên minh châu Âu đang triển khai.
Liên minh châu Âu từ năm 2023 đã áp dụng Cơ chế điều chỉnh carbon qua biên giới (CBAM), yêu cầu hàng hóa nhập khẩu như thép, xi măng, phân bón, điện, nhôm phải kê khai lượng phát thải. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng xây dựng thị trường tín chỉ carbon và lộ trình thuế carbon để thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
“Doanh nghiệp muốn giảm nghĩa vụ thuế thì buộc phải thay đổi công nghệ, giảm lượng khí thải. Đây chính là động lực để sản xuất theo hướng xanh hơn, thân thiện hơn với môi trường. Càng áp dụng sớm thì càng tạo lợi thế cho doanh nghiệp trong hội nhập”, TS. Kiên nhấn mạnh.
Tuy nhiên, để chính sách này khả thi, cần có lộ trình hỗ trợ rõ ràng. Ông Trần Trung Kiên đề xuất, trong giai đoạn đầu, Nhà nước có thể áp dụng miễn giảm hoặc hỗ trợ tương tự như khi triển khai hóa đơn điện tử, nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp thích nghi. Về lâu dài, sự ổn định và minh bạch trong chính sách thuế là yếu tố quyết định, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư đổi mới công nghệ.

Bên cạnh cải cách thuế, các chuyên gia tại hội thảo cũng đề cập đến những yêu cầu then chốt trong tiến trình phát triển bền vững. Ông Trần Thế Khang, đại diện nhóm nghiên cứu cho rằng, Việt Nam đã bám sát 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc.
Đơn cử như: phát triển hạ tầng, xóa nghèo bền vững, phổ cập giáo dục đến hết bậc trung học. Trong đó, việc miễn học phí đang được triển khai là những bước đi quan trọng để bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục cho mọi người dân.
Về kinh tế tuần hoàn, các chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng báo cáo phát triển bền vững, thể hiện trách nhiệm không chỉ với người tiêu dùng mà còn với môi trường.
“Sản xuất có trách nhiệm phải đi liền với tiêu dùng có trách nhiệm. Doanh nghiệp cần tạo dựng một hệ sinh thái phát triển bền vững, nơi sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ đều tính đến tác động lâu dài đối với xã hội và môi trường”, một ý kiến cho hay.
Đáng chú ý, nhiều ý kiến cũng đề xuất Nhà nước cần dần thể chế hóa các chính sách mới như thuế xanh, chi tiêu công xanh và các cơ chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo, để bảo đảm khung pháp lý theo kịp xu thế toàn cầu.
Đánh giá cao chủ đề của hội thảo, TS. Trần Thị Tuấn Anh – Phó Hiệu trưởng Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước khẳng định, hội thảo Khoa học Quốc gia Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước 2025 kỳ vọng sẽ mang đến những góc nhìn đa chiều, kết nối chặt chẽ nghiên cứu học thuật với thực tiễn hoạch định chính sách. Qua đó, góp phần định hình các giải pháp tài chính công, thuế và quản trị nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa.