Hàng loạt dự án thành phần Cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025 đang thiếu nguồn vật liệu cát, đất đắp nền đường dẫn đến chậm tiến độ so với kế hoạch đề ra. Hiện các địa phương đang tiếp tục triển khai thủ tục để khai thác các mỏ vật liệu nhằm đảm bảo đủ vật liệu thi công dự án.
Chậm tiến độ do thiếu nguồn vật liệu
Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT), Dự án đường bộ Cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đến nay đã bàn giao mặt bằng được 667,66/721 km, đạt 92,6%; tỷ lệ mặt bằng có thể triển khai thi công 630,5/721km, đạt 87,4%.
Theo lãnh đạo Bộ GTVT cho hay, 12 dự án thành phần này được khởi công từ ngày 1/1/2023, sau gần 11 tháng, sản lượng thi công đạt 11.305/95.937,6 tỷ đồng, tương đương 11,78% giá trị hợp đồng, chậm 1,29% so kế hoạch. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu nguồn vật liệu cát và đất đắp.
Đối với 10 dự án thành phần đoạn từ tỉnh Hà Tĩnh-Khánh Hòa, tổng nhu cầu cát cần khoảng 9,67 triệu m3, trong đó 4,95 triệu m3 được sử dụng từ 77 mỏ đang khai thác, đáp ứng về trữ lượng (10,69 triệu m3), nhưng chưa đáp ứng về công suất (đang khai thác 1,66 triệu m3/năm).
Với 4,72 triệu m3 được sử dụng từ 14 mỏ mở mới có trữ lượng khoảng 11,76 triệu m3, hiện nay các nhà thầu đã trình hồ sơ 13/14 mỏ, các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 10/13 mỏ, đã khai thác được 5/10 mỏ với trữ lượng khoảng 2 triệu m3.
Với số liệu trên, để đáp ứng nhu cầu cát cho dự án là rất lớn, Bộ GTVT nhận thấy cần phải được nâng công suất các mỏ cát đang khai thác như đối với khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long; sớm hoàn thiện thủ tục thuê đất của 5 mỏ mở mới đã được xác nhận bản đăng ký khối lượng để đưa vào khai thác.
Còn đối với 2 dự án thành phần đoạn từ thành phố Cần Thơ-Cà Mau, nguồn cát đắp nền cần khoảng 18,4 triệu m3. Trong số đó, tỉnh An Giang đã thống nhất bố trí đủ cho dự án 7 triệu m3. Đến nay, địa phương đã xác định được 6,69 triệu m3; sẽ hoàn thành thủ tục để khai thác 3,19 triệu m3 trong năm 2023, cơ bản đáp ứng yêu cầu; 3,5 triệu m3 còn lại và đối với 0,31 triệu chưa xác định nguồn cung, tỉnh tiếp tục triển khai các thủ tục trong năm nay.
Tỉnh Đồng Tháp đã thống nhất bố trí đủ cho dự án 7 triệu m3. Đến nay, tỉnh đã xác định được 4,7 triệu m3; sẽ hoàn thành thủ tục để khai thác 3,3 triệu m3 trong tháng 11/2023, cơ bản đáp ứng yêu cầu; đối với 2,3 triệu còn lại, địa phương tiếp tục xác định nguồn cung và triển khai thủ tục trong năm nay.
Tỉnh Vĩnh Long có chủ trương cung ứng cho dự án khoảng 3,35 triệu m3 tại 4 vị trí mỏ và cam kết đẩy nhanh thủ tục để có thể bàn giao 1 mỏ cho nhà thầu khai thác (khoảng 0,75 triệu m3) trong tháng 10 và đảm bảo phân bổ đủ nguồn cát cho nhu cầu năm 2023 của dự án; đối với 1,65 triệu còn lại, tỉnh tiếp tục xác định nguồn cung và triển khai thủ tục trong năm nay.
Bên cạnh đó, ủy ban nhân dân các tỉnh trên cũng đã thống nhất triển khai đồng thời các thủ tục (khảo sát, phê duyệt trữ lượng, đánh giá tác động môi trường...) để rút ngắn thời gian, sớm đưa các mỏ vào khai thác và cam kết bố trí đủ nguồn cát theo chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ đã giao, hoàn thành các thủ tục cấp mỏ trong năm 2023.
Sớm hoàn thành thủ tục khai thác 14 mỏ đất đắp
Về nguồn đất đắp, dự án đoạn Hà Tĩnh-Khánh Hòa cần khoảng 47,09 triệu m3, trong đó 5,14 triệu m3 được sử dụng từ 21 mỏ đang khai thác đáp ứng trữ lượng (khoảng 8,52 triệu m3) và công suất (khoảng 2,54 triệu m3/năm); còn lại 41,95 triệu được sử dụng từ 71 mỏ mới đáp ứng trữ lượng (khoảng 61,37 triệu m3).
Hiện nay, các nhà thầu đã trình 56/74 hồ sơ mỏ, các tỉnh đã xác nhận bản đăng ký khối lượng khai thác 38/56 mỏ, đã khai thác được 24/38 mỏ với trữ lượng khoảng 21 triệu m3.
Bộ GTVT cho rằng cần sớm hoàn thành các thủ tục khai thác của 14 mỏ đất đã được xác nhận bản đăng ký nhưng vẫn còn vướng mắc về thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, chưa thỏa thuận được với các chủ sở hữu về giá chuyển nhượng, thuê đất.
Đơn cử, các chủ sở hữu đưa ra giá cao hơn nhiều so với giá Nhà nước bồi thường hiện nay như: mỏ Hoàng Đàm ở Quảng Bình 450 triệu đồng/ha đất trồng keo, mỏ Vĩnh Sơn 5 ở Quảng Trị 1,4 tỷ đồng/ha đất trồng keo, mỏ Phú Ân ở Phú Yên 1,2 tỷ đồng/ha đất trồng keo, ở Quảng Ngãi mỏ Mễ Sơn 450 triệu đồng/ha, mỏ Chuông Ổi 1,4 tỷ đồng/ha, mỏ Núi Thị 1,8 tỷ đồng/ha... so giá Nhà nước khoảng trên dưới 300 triệu đồng/ha).
Để tháo gỡ các vướng mắc trên, Bộ GTVT đang đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có hướng dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến việc thỏa thuận bồi thường để khai thác mỏ vật liệu xây dựng phục vụ dự án; giảm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng rừng đối với khu vực có rừng...
Bên cạnh đó, Bộ GTVT cũng yêu cầu các ban quản lý dự án phối hợp với các nhà thầu thi công khẩn trương làm việc với các cấp chính quyền địa phương để thực hiện các thủ tục khai thác mỏ vật liệu xây dựng, bãi đổ thải đảm bảo đủ nhu cầu dự án, hoàn thành trong tháng 10 này theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Với mặt bằng được bàn giao, nguồn cung vật liệu xây dựng, điều kiện thời tiết..., Ban quản lý dự án chỉ đạo tư vấn, nhà thầu rà soát, chuẩn xác lại tiến độ thi công tổng thể, chi tiết và có kế hoạch huy động triển khai cho phù hợp; chủ động, linh hoạt tổ chức triển khai thi công trên công trường, không phụ thuộc vào mặt bằng và nguồn vật liệu xây dựng; kiên quyết xử lý các nhà thầu yếu kém, vi phạm tiến độ quy định hợp đồng, đặc biệt là nhà thầu phụ.