Với quá trình phát triển kinh tế, đô thị hóa, sự gia tăng dân số, cùng với thói quen sinh hoạt và ý thức của con người khiến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Giải quyết vấn đề ô nhiễm, nhất là ô nhiễm chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nhựa là việc làm cấp bách.
Theo thống kê, Việt Nam nằm trong 20 quốc gia có lượng rác thải lớn, cao hơn mức trung bình thế giới. Hiện nay, Việt Nam đang thải ra môi trường khoảng 60.000 tấn rác sinh hoạt một ngày, trong đó khoảng 60% là rác thải sinh hoạt đô thị.
Điều đáng nói, chất thải nhựa không chỉ phát sinh nhiều, mà đa phần đều bị thải trực tiếp cùng các loại chất thải khác và không được phân loại. Điều này càng gây khó khăn cho công tác phân loại, xử lý tái chế và giảm rác thải nhựa tại các địa phương. Trong khi đó, chất thải rắn là một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng ở Việt Nam, khi tốc độ gia tăng lượng chất thải rắn sinh hoạt giai đoạn 2021 - 2030 trung bình là 6%/năm.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên 70% lượng rác thải sinh hoạt hiện nay được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, trong đó chỉ có khoảng dưới 20% là được chôn lấp hợp vệ sinh. Lượng rác chôn lấp không hợp vệ sinh đang hàng ngày gây ô nhiễm cho môi trường đất, môi trường nước và không khí. Vấn đề này trở nên đặc biệt nghiêm trọng ở các thành phố lớn.
Ngoài ra, trong số 30% chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nhựa được xử lý bằng phương pháp không chôn lấp thì cũng có đến 2/3 là được đốt tiêu hủy bằng các lò đốt rác thủ công, gây khói bụi ô nhiễm không khí. Việc kiểm soát, quản lý chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nhựa còn nhiều hạn chế, dẫn đến nguy cơ gây ra tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, môi trường sống và sức khỏe con người.
Theo ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Cùng với quá trình này, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường, trong đó có chất thải rắn.
Trong chất thải rắn thì chất thải đô thị, sinh hoạt và rác thải nhựa là những vấn đề gây bức xúc. Tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở cả khu vực đô thị và nông thôn năm 2019 đã tăng khoảng 50% so với năm 2010.
Nêu nguyên nhân của sự gia tăng này, ông Thi cho hay, do những yếu tố khách quan, chủ quan của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa gắn liền với phương thức sản xuất hàng hóa, tiêu dùng, phân phối, cách thức quản lý, năng lực phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải và ý thức của người dân cũng như doanh nghiệp.
Ông Thi cho biết, chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta hiện nay có khoảng 20% là chất thải có thể tái chế; 60% chất thải hữu cơ có thể làm compost, phân vi sinh, biogas... còn lại là chất thải khác có thể đem thiêu đốt thu nhiệt hoặc chôn lấp. Thực tế này yêu cầu cần có chính sách để tái chế, tái sử dụng.
“Phần lớn các thành phần trong chất thải rắn sinh hoạt đều có thể tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng và chôn lấp. Nếu việc chôn lấp được thực hiện đúng quy cách cũng có thể tạo ra tài nguyên không gian” - ông Thi nêu rõ.
Đối với chất thải nhựa, theo Ngân hàng Thế giới, đến nay Việt Nam mới chỉ tái chế khoảng 33% các nhựa chính (PE, PP, PET, HDPE). Mặt khác, trong các loại chất thải thì chất thải rắn sinh hoạt khó quản lý và xử lý triệt để nhất do ý thức của đa số người dân còn chưa cao, hệ thống phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt, tại các đô thị lớn có tốc độ đô thị hóa cao, các khu vực phát triển công nghiệp nhanh, nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tăng nhanh trong các năm gần đây và nhiều nơi không thể tìm thêm được địa điểm chôn lấp mới trong khi chưa có các công nghệ xử lý tiên tiến thay thế, người dân chưa thực hiện việc phân loại chất thải rắn tại nguồn.
Ðể giải quyết vấn đề chất thải rắn, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan. Giống như nhiều quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam cũng đang từng bước chuyển dịch từ các mô hình “kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn” với mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Hiện nay, Việt Nam đã luật hóa nội dung kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện lồng ghép kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển, quản lý, tái sử dụng, tái chế. Tư duy về kinh tế tuần hoàn này cũng được lồng ghép trong các điều, khoản khác như đẩy mạnh chi tiêu công xanh (GPP), mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR), phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường.
Việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt được chú trọng giải quyết ngay tại nguồn, việc giảm thiểu, phân loại, tái chế, tái sử dụng và thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 và khoản 7 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường, việc phân loại chất thải rắn tại nguồn phải được thực hiện chậm nhất là ngày 31/12/2024.
Mặt khác, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán, xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam, trên cơ sở quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định của pháp luật hiện hành.
Ðể giải quyết vấn đề chất thải rắn, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan. Việt Nam cũng đang từng bước chuyển dịch từ các mô hình “kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn” với mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Hiện nay, Việt Nam đã luật hóa nội dung kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.