Cuộc đời của nhà thơ - nhà cách mạng Trần Quang Long có thể nói là quá ngắn ngủi song ông đã có cuộc hành trình Nam tiến thật hào hùng. Nguyên quán ở làng Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội; ông lớn lên, tham gia các phong trào đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm ở Huế và sau đó in đậm bước chân cách mạng ở Quy Nhơn - Cần Thơ - Sài Gòn - Tây Ninh, song hành cùng thơ trên nẻo đường tranh đấu.
Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên trong lòng đô thị được hình rất sớm. Từ năm 1950, ở Sài Gòn, đã có những cuộc biểu tình lớn. Tiêu biểu là ngày 9/1, dẫn đầu đoàn, một người trong Ban lãnh đạo là Trần Văn Ơn đã trúng đạn, hy sinh - một dấu mốc lịch sử sáng ngời được ghi sau này trở thành ngày truyền thống Học sinh, sinh viên.
Trong nhiều tên tuổi thời đó, phải kể tới người bố vợ của Trần Quang Long là Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ - một trí thức Nho học lẫn Tây học uyên thâm. Ông giữ chức vụ thư ký Hội Trí thức Cứu quốc Thừa Thiên - Huế (sau này ông là Ủy viên Ban thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Tư tưởng và hành động tranh đấu trên mặt trận văn hóa của Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ ảnh hưởng mạnh trong tầng lớp đấu tranh đô thị lan rộng khắp trong thành phố Huế như Đông Ba, Gia Hội, Đại Nội, bên dòng sông Hương… Dưới chính quyền của Diệm, ông cũng hai lần bị bắt, ở tù nhưng chúng hoàn toàn không khuất phục được ông. Phong trào đấu tranh đô thị ở Huế trở nên quyết liệt và rộng khắp.
Lứa đàn anh của Trần Quang Long trong phong trào này ở Huế, tiêu biểu là thầy giáo Ngô Kha. Trần Quang Long cũng dạy học như Ngô Kha, con đường đi của hai con người này có nhiều điểm tương đồng: Nhà thơ - thầy giáo - nhà đấu tranh đô thị - hai liệt sĩ không còn xác thân (Ngô Kha bị giặc thủ tiêu ở đâu chẳng rõ vào ngày 28 Tết âm lịch năm 1972, còn Trần Quang Long thì tan vào bụi cát).
Trần Quang Long từng là Trưởng ban Báo chí của Tổng Hội sinh viên Huế. Ông còn là Chủ tịch Hội sinh viên sáng tác thuộc Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn, tuyển chọn thơ sinh viên “Tiếng hát những người đi tới” để cổ vũ đấu tranh. Thơ Trần Quang Long thường hay nói về trái tim. Đối với ông, thơ và trái tim là một - trong thơ không thể thiếu trái tim và trong tim không thể thiếu thơ. Nhưng, cũng vẫn trái tim rất thơ ấy, bỗng bốc cháy những tình cảm trỗi dậy chưa từng có: “Con đang nghe trái tim. Nổ tung thành mảnh vụn. Máu từng dòng im lìm. Máu từng dòng phẫn nộ”.
"Viết sử nước mình lên mặt đất - Thơ", trước hết là một người bạn bí ẩn trong con người Trần Quang Long, thôi thúc anh, cùng anh nâng bước nhau vững tiến về phía "mặt trời chân lý". Lúc đang là một sinh viên đại học sư phạm Huế, người thơ Trần Quang Long đã bị chính quyền Sài Gòn tuyên án về tội làm thơ phản kháng. Rất nhiều lần anh đã vượt thoát khỏi vòng vây, điển hình như lần vượt cầu Bạch Hổ chạy thẳng lên chùa Thiên Mụ (Huế); năm 1968 là đỉnh cao của phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, lực lượng bị tấn công, thật may mắn là anh đã không rơi vào tay giặc, nhưng bọn chúng lại bắt được vợ, thay chân anh bước vào tù ngục…
Trần Quang Long sáng tác thơ (các tập Thưa mẹ trái tim, Vực thẳm và hy vọng, Thơ Trần Quang Long, Sao rừng), kịch thơ (Tiếng gọi Lam Sơn), viết truyện (tập Bông cúc vàng), làm báo (tham gia biên tập và cộng tác với một số tờ báo như Đất Mới, Dân, Huế, Tin Văn, Đất Nước với nhiều bút danh khác nhau), mục đích duy nhất và cuối cùng là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần tranh đấu trong quần chúng cùng thời chống chính quyền tay sai, giải phóng đất nước.
Cách mạng hồi đó theo anh hiểu, là “biểu tình như rừng, biểu tình như núi; biểu tình như sóng ngàn, biểu tình như nước lũ; biểu tình khi trời nắng, biểu tình khi trời mưa; những thanh niên mắt trào uất hận; biển cuồng sôi núi ngút căm hờn”. Việc Trần Quang Long công bố bài thơ “Hồi kết cuộc” trên báo Dân đã khiến ông bị kết tội “làm thơ tuyên truyền cho cộng sản” và lãnh 6 tháng tù giam.
Người em gái Trần Thị Kiên Trinh kể lại: “Để đổi lấy tự do cho anh, cha mẹ tôi phải bán căn nhà 61 Huỳnh Thúc Kháng rồi chuyển vào Sài Gòn sinh sống”.
Lần thứ 2 ngồi tù tại Pleiku trong điều kiện bị thương nặng ở chân và với cảnh sống hết sức bi đát, Trần Quang Long vẫn “cười trong tiếng nấc”, ung dung “sờ râu nhẩm tính đời ngang dọc. Bốn vách tường đen - ngày tháng qua”; anh vẫn cùng bạn tù đề thơ lên “áo rách nhàu” như một minh chứng cho niềm lạc quan tin yêu cách mạng của những anh hùng thời đại “viết lịch sử oai linh”.
Tới đâu Trần Quang Long cũng gây dựng được phong trào đầy khí thế, sức vóc. Rời Huế vào Quy Nhơn, Trần Quang Long nhanh chóng được bầu làm Chủ tịch lực lượng bảo vệ dân tộc Bình Định, “chống pháo kích bừa bãi, chống chế độ độc tài, tiến hành bầu cử dân chủ”... Sự phản kháng quyết liệt của người đi đầu của hơn một trăm học sinh sinh viên khiến bọn chúng đánh gãy chân, bắt giam anh. Ra tù. Vào miền Nam, Trần Quang Long cũng là một “tên tuổi lớn” khuấy động phong trào chống chính quyền áp bức với tư cách là Chủ tịch Hội sinh viên sáng tác thuộc Tổng hội sinh viên Sài Gòn.
Trần Quang Long đã dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng của chính mình lựa chọn.
Nỗi giằng xé lớn trong con người Trần Quang Long là lúc rời xa người yêu để dấn thân vì lý tưởng. Sau này, một người bạn cùng “xuống đường” thời đó với Trần Quang Long kể lại: “Hoàn cảnh Trần Quang Long càng thương tâm hơn ở khía cạnh khác. Anh ra đi trong lúc vợ anh - chị Quỳnh Như đang mang thai cháu Xuân Thắng. Đêm đầu tiên nằm kề nhau trên cánh võng, Long đã nói cho tôi nghe những đấu tranh, dằn vặt, đau đớn của anh khi phải rời xa người vợ yêu thương đang mang thai đứa con đầu lòng để ra đi mà không biết bao giờ trở về. Thời gian ngắn sau đó, Long gạt bỏ mọi nỗi buồn, lao vào cuộc sống ở chiến khu”.
Anh dành khối tình riêng đó nén vào thơ, đắm đuối và say nồng như “thi sĩ của tình yêu” chính hạng: “Anh lắng nghe từng hơi thở em. Uống từng ánh mắt đắm say men. Cuồng si anh chết trong hư ảo”… Từ lãng mạn: “Anh đếm ngàn sao trong mắt em” câu thơ chợt đẹp lộng lẫy: “Những tơ trời loãng giữa sương đêm”.
Ngày 11/10/1968, Trần Quang Long khi đó 27 tuổi đang là Ủy viên Mặt trận liên minh dân tộc dân chủ Sài Gòn đã hy sinh cùng các đồng đội tại căn cứ Ban tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam thuộc biên giới Tây Ninh – Campuchia vì một quả bom rơi trúng hầm bí mật. Trước đó, anh đã hiểu về sự mất mát hy sinh, hiểu về cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.
Bài thơ “Thưa mẹ trái tim” được anh sáng tác lúc mới 25 tuổi, đã linh cảm, đã mơ hồ nghe được “tiếng kêu la của bà mẹ đi tìm. Quờ quạng xác con trong căn nhà gạch vụn.” Từ lúc bài thơ ra đời đến khi hy sinh là 2 năm chặng đường mà nhiệt huyết cách mạng trong con tim anh dâng trào, sôi sục và sung mãn nhất. Để khẳng định lại điều: Trần Quang Long hiểu về cái chết như một sự cống hiến.
Cái chết của ông, giữa thời điểm cô vợ Quỳnh Như đang mang thai trong tù. Tình yêu, chính ông từng an ủi qua thư, rằng “nếu đem so sánh với sự hy sinh anh dũng của bao nhiêu người khác thật chưa đáng vào đâu”. Dòng suy tư đầy trách nhiệm đó như một mệnh lệnh sống dành cho con trai Trần Xuân Thắng chào đời trong ngục tù, và cũng là sức mạnh để người mẹ Quỳnh Như gượng đứng lên tiếp tục những gì còn dang dở khi chồng vĩnh viễn không còn bên mình nữa.
Ngồi ở quán cà phê Tổng hội Sinh viên một chiều mưa xứ Huế, miên man nghĩ đến phong thái làm việc nhiệt huyết của Trần Quang Long trong ngôi nhà 22 - Trương Định vốn là tòa soạn của nhiều tờ báo như “Tiếng gọi Sinh viên”, Tiếng gọi Học sinh”, “Tiếng gọi Việt Nam”.
Tôi vẫn nghĩ, tầng lớp thanh niên trí thức một thời hào hùng đã qua luôn là sức vóc tạo nên phần tất yếu của thắng lợi. Theo dòng lịch sử đấu tranh đô thị, Trần Quang Long vẫn tự nhận mình là “một nhân chứng tầm thường” của cách mạng. Sự khiêm tốn “thái quá” này khó mà thuận lòng những ai từng ngắm chân dung anh - một người đam mê tranh đấu cho bình an cuộc sống cộng đồng, và Thơ.